Khăn mỏ quạ: Gốc tích, tên gọi và tục hóa thành người chim của người Lạc Việt

Theo các nguồn tư liệu sử học, nguồn gốc của chiếc khăn mỏ quạ chính là chiếc mũ hình đầu chim, được tìm thấy trên những hình người và tượng người của văn hóa Đông Sơn cũng như của các nền văn hóa gốc Đông Sơn khác.

Khăn mỏ quạ có từ bao giờ?

Theo tiến sĩ Trần Quang Đức nhận định trong cuốn Ngàn năm áo mũ, phụ nữ thời Nguyễn đội khăn mỏ quạ, có thể coi là biến thể hậu kỳ của lối dùng khăn phủ thời Lê. Như vậy, tục chít khăn này ra đời từ rất sớm hay mãi tới thời nhà Nguyễn mới xuất hiện, ta hiện vẫn chưa tìm được câu trả lời thỏa đáng nhất. Chỉ biết rằng lối chít khăn mỏ quạ này từng là “mốt thời trang” trong một quãng thời gian dài trong lịch sử.

Đã là “mốt thời trang” thì “Người xấu như ma/ Chít khăn mỏ quạ cũng ra dáng người”. Chẳng cần là lớp son, lớp phấn che đi những nhược điểm trên gương mặt, chỉ đơn thuần một chiếc khăn màu đen tuyền bình dị, không một họa tiết được chít trên mái tóc người con gái cũng khiến họ xinh đẹp hơn hẳn. Vấn khăn mỏ quạ tôn thêm nét duyên không lẫn đi đâu được trên gương mặt người phụ nữ Việt. Dường như các câu hát xoan, câu hát quan họ dẫu có trong, có ngọt tới đâu, nếu thiếu đi chiếc khăn mỏ quạ, ít nhiều cũng làm các cô đào, các liền chị kém đi phần duyên.

Tại sao lại gọi là “khăn mỏ quạ”?

Tên gọi “khăn mỏ quạ” bắt nguồn từ mỏm khăn màu đen tuyền giống mỏ quạ. Đó là dấu tích mộc mạc và bền bỉ của tục thờ vật tổ chim của người Lạc Việt xưa. Quạ - tuy có màu lông đen nhưng có lúc có nơi đã từng là một biểu tượng của Mặt trời và lòng hiếu thảo.

Nhắc đến quạ, một loài vật chuyên ăn xác chết thối rữa, ta thường sẽ nghĩ đến điềm xấu, chuyện xui rủi. Trong các thiên sử thi của một số quốc gia phương Tây, hình ảnh con quạ đen xuất hiện trước mặt người mẹ, người vợ là báo hiệu cho sự hy sinh của các vị anh hùng trên chiến trận.

Thế nhưng, trong quan niệm của Trung Quốc, quạ lại là biểu tượng cho lòng hiếu kính, hiếu thảo đối với đấng sinh thành. Trong Nho giáo có câu “Từ ô phản bộ”(慈乌反哺) dùng để nói về loài quạ đen này. Tách nghĩa câu thành ngữ ấy, “từ” nghĩa là phụng dưỡng; “ô” chỉ loài chim quạ, Hán Việt gọi là ô nhã; “phản bộ” được hiểu là khi chim quạ trưởng thành sẽ đi kiếm thức ăn để nuôi chim bố, chim mẹ. Về tập tính loài quạ, khi cha mẹ già yếu, bệnh tật, những con quạ con sẽ đi tìm thức ăn cho cha mẹ mình. Chúng còn làm cho thức ăn kiếm được dễ ăn hơn, bằng cách nhai và mớm cho cha mẹ. Như thế, câu thành ngữ này dùng để nói về việc con cái báo đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ.

Ngẫm nghĩ từ chiếc khăn mỏ quạ, chúng ta hiểu vì sao cha ông ta đã dùng chữ Hùng chỉ chim đực để ghi danh hiệu của Vua Hùng, chữ Hồng chỉ chim Hồng để chỉ nòi giống Hồng Bàng, Con Lạc, cháu Hồng, con Rồng - cháu Tiên (Tiên là Chim), có câu “Chim Việt cành Nam” để nói về cội nguồn dân tộc.

Chít khăn là cả một nghệ thuật

Khăn mỏ quạ nhìn có vẻ đơn điệu là thế, nhưng vấn làm sao cho vừa, cho đẹp với khuôn mặt mình và tạo cho khuôn mặt có dáng tựa búp sen, thì đòi hỏi sự khéo léo của người con gái. Nhờ khăn mỏ quạ, vẻ đẹp của người phụ nữ đất Bắc được thể hiện qua diện mạo bên ngoài vẫn chưa đủ, mà còn thể hiện qua sự khéo léo của đôi bàn tay khi tự chít cho mình chiếc khăn này. Chiếc khăn đặc một màu đen tuyền giản dị như vậy, nhưng khi vấn lên mái tóc cũng rất cầu kỳ, thử thách ở người con gái sự cẩn thận, tỉ mỉ.

Ngày xưa, để chít được khăn mỏ quạ, trước tiên người dùng phải biết quấn mái tóc dài trong một vuông vải dài, vòng tròn lại thành hình bầu dục, đặt ngay ngắn lên đầu, hơi xệ về phía gáy, rồi ghim lại. Sau đó, từ một chiếc khăn vuông màu đen, họ gấp chéo thành hình tam giác sao cho cân đối, bẻ hình mỏ quạ chính giữa đường ngôi trên đầu, bắt 2 góc khăn về 2 phía tai và thắt múi ở gáy.

Bây giờ, chít khăn mỏ quạ đơn giản hơn nhiều. Chỉ cần búi một búi tóc ở đằng sau gáy, đội lên đầu một vòng khăn quấn sẵn tựa hình bầu dục, sau đó chít chiếc khăn vuông đen thành hình mỏ như người xưa là xong. Người con gái chẳng cần quá khéo tay cũng có thể tự chít cho mình một chiếc khăn mỏ quạ thật xinh.

Những nét đẹp gắn với khăn mỏ quạ đã trở thành vẻ đẹp cổ điển của người con gái Việt. Kể từ khi hát Xoan, hát Quan họ, tục thờ Vua Hùng lần lượt trở thành những Di sản của văn hóa thế giới thì chiếc khăn mỏ quạ lại chính là di sản vật thể duy nhất âm thầm kết nối cội nguồn và thần thái của cả ba di sản phi vật thể trên. Nó xứng đáng được nhìn nhận, tôn vinh như là biểu tượng cao quý, đẹp đẽ nhất của văn hóa cổ truyền Việt.

Tục hoá thành người chim của người Lạc Việt

Các tài liệu sử học, khảo cổ học, dân tộc học nhất trí khẳng định: người Lạc Việt xưa thờ bà tổ Chim, biểu tượng là hình chim Lạc (cò trắng) bay quanh mặt trời trên trống đồng. Bà tổ Chim cũng là mẹ Lúa, là Nữ thần Mặt trời, trong truyền thuyết Hồng Bàng, đã hóa thành Mẹ chim Âu Cơ, bà Tổ của các nhóm Bách Việt.

Thờ mẹ Chim, trong các hội lễ hướng tới tổ tiên - thần linh, người Lạc Việt có tục hóa trang thành người - chim, bằng cách đội mũ hình đầu chim, đội khăn cắm lông chim, múa các động tác của chim với các công cụ, vũ khí buộc lông chim. Họ cũng dựng ngôi nhà có hình chim trên bờ nóc và hai đầu hồi, làm các con thuyền có hình đầu chim, mắt chim ở hai đầu thuyền. Tất cả các tục đó đều được thể hiện rõ rệt trên trống đồng Ngọc Lũ, một trong những chiếc trống đẹp nhất của văn hóa Đông Sơn, nền văn hóa đồng thau của người Lạc Việt.

 

Bài mới
Bài cũ